9 nhóm chính sách trọng tâm cho phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam
Dự thảo Nghị định về phát triển đô thị thông minh gồm 10 chương, 50 điều, tập trung vào 9 nhóm chính sách lớn nhằm tạo khung pháp lý toàn diện cho việc phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam.
Chiều 15/8, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Tường Văn đã chủ trì Hội thảo “Xây dựng Nghị định về phát triển đô thị thông minh”. Hội thảo diễn ra theo hình thức trực tiếp và trực tuyến, với sự tham dự của đại diện các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các chuyên gia.

Nhu cầu cấp bách về khung pháp lý thống nhất
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Nguyễn Tường Văn khẳng định, việc chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ dữ liệu số trong quản lý đô thị là xu thế tất yếu, phản ánh yêu cầu đổi mới mô hình quản trị đô thị trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Theo Thứ trưởng, dự thảo Nghị định đặt mục tiêu tạo ra một khung pháp lý bao quát từ khâu quy hoạch, đầu tư, xây dựng, hạ tầng, quản lý, vận hành đến cung cấp dịch vụ thông minh; đồng thời làm rõ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân.
“Việc ban hành Nghị định sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có hệ thống đô thị hiện đại, bền vững, xanh, thông minh, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng sống”, Thứ trưởng Nguyễn Tường Văn nhấn mạnh.

Cơ sở để xây dựng văn bản xuất phát từ định hướng của Nghị quyết số 06-NQ/TW (2022) về phát triển hệ thống đô thị xanh, thông minh; Nghị quyết số 57-NQ/TW (2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cùng các luật, nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ.
Ông Lê Hoàng Trung - Phó Cục trưởng Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) cho biết, sau hơn 7 năm triển khai Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam (Đề án 950), công tác phát triển đô thị thông minh ở nước ta đã ghi nhận những kết quả tích cực bước đầu.
Đến nay, 37 địa phương (trước khi sáp nhập) đã ban hành và triển khai đề án hoặc kế hoạch phát triển đô thị thông minh, áp dụng linh hoạt và sáng tạo ở nhiều lĩnh vực ưu tiên như: Trung tâm điều hành thông minh (IOC), hệ thống dữ liệu đô thị trên nền GIS, giao thông thông minh, cấp nước, chiếu sáng thông minh, các dịch vụ tiện ích về y tế, giáo dục, đặc biệt là dịch vụ công trực tuyến.

Việc phát triển đô thị thông minh đã mang lại lợi ích rõ rệt cho cả người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Người dân được tiếp cận các tiện ích hiện đại, thông tin minh bạch về quy hoạch, y tế, giao thông, giáo dục; doanh nghiệp có cơ hội đầu tư, kinh doanh minh bạch, hiệu quả hơn nhờ dịch vụ công trực tuyến; Nhà nước sở hữu công cụ đột phá trong điều hành, quản lý, giúp ra quyết định nhanh chóng và chính xác. Các Bộ, ngành cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn và 45 tiêu chuẩn liên quan đến phát triển đô thị thông minh.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai vẫn bộc lộ không ít hạn chếnhư: thiếu sự thống nhất về khái niệm và cách thức tổ chức thực hiện; thiếu quy chuẩn, tiêu chuẩn để chuẩn hóa và đảm bảo liên thông; chưa có cơ chế đặc thù về mua sắm, đấu thầu; nguồn lực đầu tư còn hạn chế, cơ chế huy động vốn xã hội hóa chưa hiệu quả. Chính vì vậy, ông Lê Hoàng Trung nhấn mạnh, việc xây dựng Nghị định về phát triển đô thị thông minh là yêu cầu cấp bách và cần thiết.
Tạo nền tảng pháp lý để huy động nguồn lực xã hội cho phát triển đô thị thông minh
Lãnh đạo Cục Phát triển đô thị cho biết, dự thảo Nghị định gồm 10 chương, 50 điều, tập trung vào 9 nhóm chính sách lớn nhằm tạo khung pháp lý toàn diện cho việc phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam.
Trước hết, nhóm quy định chung đóng vai trò nền tảng, thống nhất khái niệm “đô thị thông minh” và các yêu cầu chung cần đạt được. Điều này giúp tránh sự hiểu khác nhau giữa các địa phương, đồng thời bảo đảm mọi hoạt động phát triển đô thị thông minh đều hướng tới các mục tiêu thống nhất.
Nhóm chính sách thứ hai đề cập đến định hướng, quy hoạch, đề án và kế hoạch. Đây là bước quan trọng để định hình lộ trình, bảo đảm việc triển khai đô thị thông minh được gắn kết với quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và phù hợp với điều kiện từng địa phương.

Nhóm thứ ba tập trung vào nền tảng kỹ thuật, bao gồm hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; khung kiến trúc công nghệ thông tin và truyền thông; khả năng tương tác của các hệ thống nền tảng và ứng dụng; cùng các quy định bảo đảm an toàn thông tin. Đây là yếu tố quyết định khả năng vận hành hiệu quả và an toàn của đô thị thông minh.
Nhóm thứ tư liên quan đến hạ tầng đô thị thông minh. Nội dung này bao gồm việc xây dựng và quản lý nền tảng số, cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin quản lý quy hoạch và phát triển đô thị, bản sao số (digital twin) của đô thị, cũng như các hạ tầng kỹ thuật khác phục vụ quản lý và vận hành thông minh.
Nhóm chính sách thứ năm khuyến khích đổi mới sáng tạo và thí điểm có kiểm soát, nhằm tạo điều kiện thử nghiệm những mô hình, giải pháp mới, nhưng vẫn bảo đảm an toàn và hiệu quả trước khi nhân rộng.
Nhóm thứ sáu quy định các yêu cầu đối với công trình và khu vực như tòa nhà thông minh, khu đô thị thông minh, khu đô thị công nghệ. Những tiêu chí này sẽ định hướng cho việc thiết kế, xây dựng, vận hành các công trình đạt chuẩn thông minh và bền vững.
Nhóm thứ bảy tập trung vào quản trị và điều hành đô thị thông minh. Nội dung này quy định rõ chức năng, hoạt động, cùng các giải pháp kỹ thuật để triển khai hiệu quả các trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh (IOC), giúp chính quyền nâng cao năng lực quản lý và phản ứng nhanh trước các tình huống.
Nhóm chính sách thứ tám đề cập đến nguồn lực tài chính cho phát triển đô thị thông minh, bao gồm cơ chế huy động vốn, phương thức đầu tư và cách quản lý, sử dụng nguồn lực một cách minh bạch, hiệu quả, tạo điều kiện cho sự tham gia của khu vực tư nhân.
Cuối cùng, nhóm thứ chín tập trung vào tổ chức thực hiện và cơ chế điều phối. Đây là phần then chốt để bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Bộ, ngành, địa phương và các đối tác liên quan, giúp quá trình phát triển đô thị thông minh diễn ra đồng bộ, đúng tiến độ và đạt chất lượng.

Cũng tại Hội thảo, đại diện các Sở Xây dựng, doanh nghiệp về cơ bản đều nhất trí với các nội dung dự thảo, đồng thời đánh giá cao dự thảo Nghị định với nhiều nội dung mang tính đột phá.
Kết luận, Thứ trưởng Nguyễn Tường Văn cho biết, các góp ý từ Hội thảo sẽ được tổng hợp, phân tích để tiếp thu, chỉnh sửa, bảo đảm Nghị định vừa phù hợp thực tiễn Việt Nam, vừa tiếp cận tiêu chuẩn và kinh nghiệm quốc tế. Mục tiêu là hoàn thiện hồ sơ, trình Chính phủ xem xét trong thời gian sớm nhất, đáp ứng yêu cầu đã nêu tại Thông báo kết luận số 30-KL/TGV của Ban Chỉ đạo Trung ương và chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Chí Dũng.
Việc ban hành Nghị định được kỳ vọng không chỉ giải quyết các vướng mắc hiện tại trong triển khai đô thị thông minh mà còn tạo nền tảng pháp lý để huy động nguồn lực xã hội, thúc đẩy hợp tác công - tư, phát huy sáng kiến của địa phương và doanh nghiệp.
Qua đó, hướng tới mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ hình thành mạng lưới các đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng, kết nối quốc tế, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Ngày 23/7/2025, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 1134/QĐ-BXD về Kế hoạch soạn thảo Nghị định của Chính phủ về phát triển đô thị thông minh theo trình tự, thủ tục rút gọn.
Theo Kế hoạch, trước ngày 15/8/2025, Bộ sẽ tổ chức tiếp thu, giải trình kèm theo Hồ sơ Nghị định đã được hoàn thiện, chỉnh lý. Ngày 15/8/2025, trình Chính phủ xem xét, quyết định.
https://baoxaydung.vn/ - 18-08-2025